Những tờ báo “phong trào”

Thứ bảy, 21/06/2025 15:02

Mãi đến năm 1988 tôi mới sống hẳn với nghề làm báo, có thẻ nhà báo và trở thành hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Nhưng trước đó 23 năm, ngay từ năm 1965, khi còn là học sinh lớp Đệ Nhất (lớp 12) của Trường Quốc Học Huế, tôi đã chính thức lao vào việc viết báo, làm báo. Không kể những tờ báo học trò viết tay trước đó, năm 1965, trong phong trào đấu tranh của thanh niên, sinh viên học sinh (TNSVHS) ở các đô thị miền Nam Việt Nam, tôi được giao nhiệm vụ thực hiện tờ báo Vượt Sóng của Lực lượng TNSVHS Tranh thủ Hòa bình tỉnh Quảng Nam, tại Hội An.

Morin - Đại học Văn khoa Huế, nơi ươm mầm những tờ báo “phong trào”.
Đại học Huế, một trong những “cái nôi” sản sinh những tờ báo tranh đấu của học sinh - sinh viên Huế trước 1975.

Vượt Sóng có khổ nhỏ bằng nửa tờ nhật báo lúc bấy giờ (khoảng 25 x 30cm), xuất hiện đều đặn ba ngày một lần. Báo được in typo tại nhà in Nam Ngãi, Hội An. Nếu tôi nhớ không nhầm thì Nam Ngãi Hội An là chi nhánh của nhà in Nam Ngãi Tam Kỳ, với một ông chủ nhà in nhân hậu, hào hiệp, chẳng những giúp đỡ cho lớp SVHS làm báo tranh đấu, mà còn hết lòng ủng hộ những người trẻ tuổi nhiệt huyết. Và phải chăng là một cái duyên tri ngộ, tôi lần lượt được anh em thợ in của Nam Ngãi Hội An dạy cách sắp chữ, mi trang trong nghề in typo rồi sau đó cùng các em học sinh in tập san Chân Dung tại nhà in này và lại được ông chủ nhà in nhiệt tình giúp đỡ.

Nói về những tờ báo đấu tranh của phong trào TNSVHS ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, không thể không nói đến sự xuất hiện của các thi văn đoàn trong học sinh và các nhóm sáng tác trong sinh viên ở khắp các trường Trung học và Đại học trên toàn miền Nam; vì đấy quả là một hiện tượng đặc biệt. Đặc biệt cả về nguyên nhân hình thành, về hình thức tổ chức và cả về tính chất tiến bộ - yêu nước của các nhóm bạn trẻ này.

Để có thể có một cái nhìn đi sát với thực tế đấu tranh và sự hình thành của các “tờ báo phong trào”, là tờ báo của các tổ chức đấu tranh chống chế độ Sài Gòn và chống Mỹ. Vì thế, báo phong trào tuy chỉ là những tờ báo “bán công khai”, nghĩa là không được chính quyền ở các địa phương cấp phép, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu của các tầng lớp quần chúng trong xã hội, được lớp đồng bào lao động chân tay ủng hộ cả về tinh thần và vật chất. Chính vì thế, “báo phong trào” đã phần nào đó gây được ảnh hưởng cụ thể, thiết thực trong đời sống tư tưởng - chính trị của nhân dân tại các đô thị miền Nam. Một chi tiết cũng không thể không nói đến: nhiều khi, trong hoàn cảnh đấu tranh sôi nổi, cấp thiết, những người trẻ là thanh niên, sinh viên, học sinh tham gia phong trào đấu tranh không có thì giờ làm báo. Trong những trường hợp này, đã xuất hiện những bản TUYÊN NGÔN, TUYÊN CÁO, TÂM THƯ... thường là được in ronéo, phổ biến rộng rãi, như những “tờ rơi” quảng cáo các sản phẩm, trên đường phố ngày nay.Kể về báo phong trào ở Huế, không thể không nhắc đến tờ Lập Trường, là tờ báo của một nhóm nhà giáo ở Đại học Huế. Tờ Lập Trường chủ trương “chống mọi chế độ độc tài, dù đó là “chế độ Diệm mà không có Diệm”. Tờ Lập Trường được nhân dân khắp các tỉnh miền Trung ủng hộ, tiếp nhận nồng nhiệt; nhờ đó, báo sống được hơn 2 năm, từ năm 1964 đến giữa năm 1966.

Đầu năm 1964, nhân dân Huế, chủ yếu là lực lượng thanh niên - sinh viên - học sinh, lại nổi dậy đấu tranh chống chế độ Sài Gòn. Để kịp thời phục vụ phong trào, nhiều tờ báo ngắn ngày đã ra đời. Các đoàn thể tranh đấu ở Huế có các tờ báo Cái chổi, Lực lượng. Hội đồng nhân dân Cứu quốc có tờ Tranh đấu. Tổng hội Sinh viên có tờ Sứ mạng, Dân tộc và Sinh viên Huế... Một nhóm trí thức và sinh viên Huế có quan điểm chống Mỹ triệt để, đã cho ra đời báo Việt Nam Việt Nam (Hoàng Phủ Ngọc Phan - trích từ Tiếng hát những người đi tới, Báo Thanh Niên, Báo Tuổi Trẻ, Nhà xuất bản Trẻ hợp tác xuất bản, 1993, tr.485).

4 trong số nhiều tờ báo “phong trào” trước 1975.

Làm báo bí mật rất khó !

Cái khó đầu tiên là không có phương tiện nào cả mà lại phải làm cho có những tờ báo, những trang báo nói chuyện chống chính quyền, chống chế độ tay sai Sài Gòn và chống Mỹ. Muốn làm được điều đó, chuyện không ai có thể chối cãi được, chỉ có những lúc phong trào đấu tranh thanh niên, sinh viên-học sinh trở thành cao trào, mới là những thời điểm người hoạt động cách mạng làm báo dễ dàng nhất.Tờ báo “phong trào” “đỏ nhất” giữa lòng thành phố Huế, là tờ Vì dân chống Mỹ...

Vì dân chống Mỹ ra được 11 số... Như đã nói, do tờ báo “đỏ quá”, nên nhiều cơ sở cách mạng nếu có can đảm nhận đọc thì cũng không dám cất giữ. Sau khi anh Nguyễn Duy Đàm bị bắt và bị thủ tiêu tại Ba Lòng (Quảng Trị), thì tờ báo phải ngưng hẳn.

Theo lời kể của anh Lê Phước Á, một người hoạt động cách mạng bí mật nổi tiếng ở Huế, khi Thành ủy Huế đưa anh Lê Ngọc (Lê Công Cơ) về ở nhà anh thì việc “làm báo phong trào” lại tiếp tục và lần này theo ý kiến của anh Lê Ngọc, được anh em quyết định chọn tên báo là Cứu lấy quê hương. Một ban biên tập được hình thành, gồm có Hồ Tịnh Tình, Lê Thanh Xuân, Phan Văn Hoàng, Đặng Văn Sở..., với Lê Công Cơ làm chủ biên.

Tờ “Cứu lấy quê hương” chỉ ra được 6 số.Có thể nói mà không sợ quá lời, việc thực hiện hai tờ báo “Vì dân chống Mỹ” và “Cứu lấy quê hương” tại Huế vào những năm 1966,1967 ấy, là một cột mốc lịch sử, chứng minh một cách hùng hồn rằng, dù kẻ thù không ngừng ra sức đàn áp, bắt bớ... thì lực lượng cách mạng, nói chính xác hơn là những người yêu nước, vẫn hằng có mặt trong lòng thành phố, ngay trong hang ổ của địch. Và điều tiên quyết, mà cũng là điều quan trọng nhất, để những con người yêu nước ấy vẫn có mặt, vẫn hiện diện giữa gian khó, hiểm nguy, là nhờ tấm lòng che chở, đùm bọc của nhân dân.

Ngày 15-3-1966, cuộc đấu tranh của TNSVHS Huế bùng nổ dữ dội. Lực lượng Sinh viên Tranh thủ Hòa bình phát hành tờ báo Tranh Thủ, có kích cỡ bằng nửa tờ nhật báo, cứ hai ngày ra một số. Báo được in typo ở nhà in Nguyễn Đình Hưởng, đường Bạch Đằng, TP Huế. Ban đầu, tôi chỉ tham gia viết bài, nhưng sau 8 số báo đầu tiên, người phụ trách chính của tờ báo là ông Hoàng Văn Giàu, một phụ giảng (assistant) của Đại học Văn khoa Huế, được điều lên làm thư ký riêng cho Thượng tọa Thích Trí Quang tại chùa Từ Đàm, giao việc phụ trách tờ báo lại cho anh Huỳnh Văn Chênh, một sinh viên Phật tử. Anh Chênh không chuyên về báo chí, nên mọi bài vở anh đều giao cho tôi lo liệu. Chính đây là khoảng thời gian tôi học được nghề làm báo một cách đầy đủ, thực tiễn và có kết quả nhất. Nhiều khi, các bài báo quá dài, mi trang không lọt, tôi phải ngồi ngay bên cạnh máy in để cắt bớt bài, dù đó là bài của bất cứ ai. Được cái là anh em công nhân nhà in rất tận tình, sẵn sàng giúp tôi hoàn thành công việc, và chưa bao giờ báo ra không đúng kỳ. Để tỏ lòng biết ơn, tôi thường mang chuối, bánh kẹo đến tặng anh em công nhân. Các món quà này là của các chị, các mẹ tiểu thương chợ Đông Ba đem tặng Lực lượng TNSVHS tranh đấu, chất đầy cả một căn phòng của trụ sở Lực lượng tranh đấu, tại số 155 Trần Hưng Đạo, ở đầu phía Bắc cầu Trường Tiền.

Trong những ngày nổi dậy năm 1966 này, lực lượng SVHS đã chiếm Đài Phát thanh Huế. Một số anh em trong Nhóm Việt - một trong những tổ chức sáng tác văn học có quy mô và tồn tại trong một thời gian dài (10 năm, 1965- 1975) - đã được phân công tham gia viết bài, làm công tác biên tập để phục vụ cho những buổi phát thanh gồm cả ba thứ tiếng: Việt - Anh - Pháp. Nghĩa là thế hệ sinh viên tranh đấu lúc bấy giờ không chỉ làm báo in, mà còn làm cả báo nói. Các chương trình phát thanh này kéo dài từ ngày 22-3 đến ngày 7-6- 1966 (75 ngày đêm làm chủ Huế).

Tôi miệt mài với công việc làm báo Tranh Thủ, từ viết bài, biên tập, chăm sóc bản in. Báo Tranh Thủ ra được gần 40 số thì ba Tiểu đoàn Lôi hổ và Thủy quân Lục chiến của quân đội Sài Gòn tấn công Huế, dẹp hết bàn thờ ngoài đường phố, bắt bớ các SVHS tham gia phong trào tranh đấu. Tôi trốn về ở nhà của một người bạn thời Quốc Học, là Trương Đình Đăng, tại làng Nghĩa Lộ, huyện Quảng Điền, bên phá Tam Giang.

Mùa hè năm 1968, nhân Trần Duy Phiên đi dạy ở Kon Tum về Huế, ở lại cùng tôi trong căn phòng tôi được cho lưu trú trên tầng 3 Thư viện Đại học Huế (số 20 Lê Lợi), chúng tôi mới nảy ra ý làm tờ Tạp chí Việt. Thế là, bốn thành viên nòng cốt của nhóm Việt, gồm Trần Văn Hòa tức Hoàng Hòa, lúc ấy đã là Đảng viên thuộc Ban Cán sự Sinh viên Viện Đại học Huế), Trần Minh Thảo (Trần Hồng Quang, cơ sở cách mạng), Trần Duy Phiên, Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ), trong một cuộc họp tại phòng lưu trú của tôi, đã đi tới quyết định cho ra đời tạp chí Việt, vào tháng 8- 1968.

Việt in khổ 20 x 27cm (trừ số ra mắt in khổ 20 x 25cm) số lượng trang xê dịch từ 100 đến 136 trang, bìa in typo, ruột in ronéo, trình bày đơn giản và trang nhã. Bên dưới chữ Việt in đậm, với cỡ chữ lớn, có dòng chữ “Tờ báo vận động văn học nghệ thuật về nguồn”. Hai từ “Về nguồn” được giải thích rõ ở trang bìa 4 của Việt số 2: “Chúng tôi hô hào về nguồn bởi vì dân tộc đang bị đe dọa trước đủ thứ tai ương, có nguy cơ hủy diệt giống nòi. Và chúng tôi gọi là về nguồn, trong lãnh vực văn học nghệ thuật, bởi vì thấy rằng văn học nghệ thuật bây giờ đã tách xa yếu tính và chức năng của nó”.

Morin - Đại học Văn khoa Huế, nơi ươm mầm những tờ báo “phong trào”.

Với một chủ trương như thế, tất nhiên tạp chí Việt chỉ có thể xuất hiện dưới hình thức “bán công khai”. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà trên mẫu bìa tạp chí Việt số 1, dùng làm áp phích quảng cáo, dán ở cổng Trường Quốc Học và Đồng Khánh, một bàn tay nào đó đã “ưu ái” bổ sung ngay sau chữ Việt một chữ Cộng bằng mực đậm nét.

Do nhiều khó khăn, nhất là về mặt tài chính, dự định ra định kỳ của Việt không thể thực hiện. Việt số 1 ra tháng 8-1968; Việt số 2 ra tháng 9-1968; Việt số 3: tháng 10-1968; Việt số 4: tháng 6-1969; Việt số 5: tháng 7 và tháng 8-1969. Việt số 6 đã chuẩn bị xong bài vở, nhưng mãi mãi không ra được. Việt số 1, có sự góp mặt của Trần Duy Phiên, Trần Minh Thảo, Tần Hoài Dạ Vũ, Ngô Văn Ban. Việt số 2 còn có Trần Minh Thảo tham gia thực hiện; nhưng do Trần Duy Phiên và Trần Minh Thảo phải đi dạy ở Kon Tum và Buôn Mê Thuột; còn Trần Văn Hòa thì bị bắt và bị đày đi Côn Đảo, nên từ Việt số 3 (tháng 10-1968) chỉ còn có Nguyễn Văn Bổn và Ngô Văn Ban quán xuyến mọi chuyện, từ thu thập bài vở, đánh máy stencil, cho đến chạy tiền in, mà chủ yếu là dùng tiền ăn của Ngô Văn Ban, do cha mẹ từ Nha Trang gửi cho và đôi khi là từ tiền đi dạy kèm (gia sư) của Nguyễn Văn Bổn.

Tuy về sau, trong các năm 1973,1974, tôi có giúp một số bạn sinh viên ra các tờ Đất Mới, Thái Hòa, và cùng với Chi bộ Giáo chức Huế, dưới danh nghĩa Trung tâm Liễu Quán của Phật giáo tại Huế, xuất bản tập san nghiên cứu Văn Sử, nhưng chỉ có thời làm tạp chí Việt là tôi cảm thấy hạnh phúc nhất.

Theo Hoàng Phủ Ngọc Phan, “từ năm 1970 đến 1974, Huế có thêm các nhóm sinh viên học sinh, kế tục truyền thống phong trào với những tờ báo Tự Quyết, Nối tay, Tiếng gọi sinh viên, Tiếng gọi Việt Nam, Mặt trận văn hóa, Mặt trận hòa bình, Tự cường, Thân hữu... (Hoàng Phủ Ngọc Phan, bđd, tr. 485).

Điều quan trọng nhất mà tôi nghiệm ra sau những ngày tháng làm báo phong trào là, chính những tờ báo ấy đã trui rèn, tôi luyện một lớp người viết báo, làm báo chuyên nghiệp sau này, dù họ không hề học qua một trường đào tạo báo chí nào.

TẦN HOÀI DẠ VŨ